nghệ thuật bài thơ đây thôn vĩ dạ
- Nghệ thuật liên tưởng, so sánh, nhân hóa, cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống. 2.Nội dung - Bài thơ là một bức tranh toàn bích về cảnh vật và con người thôn Vĩ.
Tổng hợp các bài nghị luận văn học về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về một tâm hồn thơ tràn ngập sự lãng mạn lẫn dạt dào yêu thương. Top 11 bài nghị luận về lòng dũng cảm siêu hay. Top 8 bài nghị luận về bệnh vô cảm siêu hay. 1. Dàn ý nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ.
Thành công của bài thơ nói riêng và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói chung là do một số yếu tố nghệ thuật đã được Hàn Mặc Tử sử dụng một cách sáng tạo: nhiều biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi hình ảnh như: so sánh, ám chỉ. , câu hỏi tu từ, phép tương phản; ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc; giọng thơ tình cảm, trìu mến.
Bố cục bài thơ. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử được chia làm ba phần, tương ứng với ba khổ thơ của bài: Phần 1: Khổ thơ thứ nhất: Thiên nhiên xanh mát của thôn Vĩ Dạ hiện lên trong tâm tưởng của thi nhân. Phần 2: Khổ thơ thứ hai: Vẻ đẹp của đêm trăng xứ Huế, và dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tác giả sáng tác 1938 sau này được đưa vào tập Thơ Điên (sau đổi tên thành Đau thương). Đây thôn Vĩ Dạ được nhiều người cho rằng đã lấy nguồn cảm hứng từ mối tình của tác giả với cô gái ở làng Vĩ Dạ, gần bên sông Hương thơ mộng. II. Đặc sắc nội dung, nghệ thuật. Đặc sắc nội dung.
Site De Rencontre Pour Timide Gratuit. “Ai mua trăng tôi bán trăng cho Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ Ai mua trăng tôi bán trăng cho Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”. Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử – một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Có lẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ. “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả “Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm. Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử “Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng” “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? ” Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ. Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với “sinh, lão, bệnh, tử”. Tác giả đã cố níu kéo, cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Điều đặc biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn miêu tả rất thực về cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi nên tác giả rất sợ điều đó. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi nhân – người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn. Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”. NguyenHuuAnhTuan – Trang This entry was posted on 12/08/2011, 817 pm and is filed under Đời sống xã hội. You can follow any responses to this entry through RSS You can leave a response, or trackback from your own site.
Tập “Thơ điên” là tập thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử. Trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài viết bên dưới sẽ nêu lên nội dung và đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong thơ Hàn Mặc Tử. Trong bài thơ này thể hiện được rõ giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ Dạ. Qua đó nói lên được tình yêu với thiên nhiên với quê hương đất nước cùng những khát khao của nhà sắc nghệ thuật trong bài Đây thôn Vĩ DạContent1 Giới thiệu tác giả, tác phẩm nêu bố cục bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ2 Giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ Đặc sắc nội Đặc sắc nghệ thuật3 Trong từng khổ thơ thể hiện được nội dung và đặc sắc nghệ thuật riêng Khổ thơ đầu Khổ thơ thứ Khổ thơ thứ 3Giới thiệu tác giả, tác phẩm nêu bố cục bài thơ Đây thôn Vĩ DạHàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. Ông là một nhà thơ rất tài hoa nhưng lại bạc mệnh, ông mất sớm vì bệnh tật. Thơ của ông được người đời đánh giá rất cao bởi sự kì lạ và độc đáo của chúng. “Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ được sáng tác vào năm 1938. Sau này chúng được đưa vào tập “Thơ Điên” về sau đổi thành Đau thương. Bài thơ này được cho rằng lấy cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái ở làng Vĩ Dạ. Ngôi làng nằm ngay bên sông vào nội dung và nét đặc sắc nghệ thuật trong thơ mà bài thơ được chia làm 3 khổ thơKhổ 1 Nội dung nói về hình ảnh vườn thôn Vĩ Dạ hiện lên trong tâm trí tác giảKhổ 2 Khổ thơ này nói về hình ảnh một đêm trăng sáng, sông nước nơi xứ Huế. Đồng thời nói lên tâm trạng của Hàn Mặc TửKhổ 3 Trí tưởng tượng và nỗi hoài nghi hiện lên trong tâm trí của tác giảGiá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ DạDưới đây nói lên nét độc đáo về nội dung và đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ sắc nội dungQua góc nhìn của Hàn Mặc Tử bức tranh thiên nhiên về làng Vĩ Dạ hiện lên giản dị biết bao. Gần gũi nhưng mơ hồ, có nét kì bí rất riêng của xứ Huế. Tuy là ba khổ thơ riêng biệt nhưng chúng lại kết hợp hòa quyện với nhau. Điều này giúp cho người đọc cảm nhận về con người và thiên nhiên nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh cô gái làng Vĩ Dạ. Qua đó nói lên được cảm xúc tình yêu da diết mãnh liệt của nhà thơ. Bài thơ này là tình yêu với quê hương với con người xứ Huế. Đó cũng là khát khao sống của nhân vật trữ tình ẩn sau mỗi đoạn sắc nghệ thuậtVới cách sử dụng ngôn từ trong sáng và gần gũi và gợi hình, gợi cảm. Tả cảnh được kết hợp với nhiều hình ảnh tượng trưng. Tất cả mang đến nét riêng và độc đáo trong thơ. Tác giả sử dụng nhiều câu hỏi tu từ cùng với đó là giọng thơ tha thiết. Mỗi khổ thơ trong bài đều ẩn chứa những tâm tư cảm xúc và tình cảm của nhân vật trữ tình. Tuy không theo một thứ tự nhất định nào. Nhưng bài thơ vẫn phù hợp với dòng cảm xúc tâm tư của tác từng khổ thơ thể hiện được nội dung và đặc sắc nghệ thuật riêng Nội dung và nét đặc sắc nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ Dạ được thể hiện rõ qua từng khổ thơ đầu Trong câu thơ đầu tiên “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” tác giả sử dụng câu hỏi tu từ. Nó như lời mời gọi tha thiết đồng thời là lợi tự trách chính bản thân mình. Khi đọc xong câu đầu ai cũng đều đọng lại trong lòng nỗi da đẹp của hàng cau và ánh nắng lấp lánh thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Đó là “nắng hàng cau” hay “xanh như ngọc”. Tất cả làm hiện lên được hình ảnh ấm áp và rất lãng mạn. “Xanh ngọc” là chỉ sự tươi mới của một khu vườn. Chúng như một viên ngọc khổng lồ to lớn mạnh mẽ vui vẻ và tràn đấy sức thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” có nhiều cách hiểu khác nhau. Đó có thể là hình ảnh cô gái Huế dịu dàng. Cũng có thể đó là hình ảnh mà thi sĩ bắt gặp được khi lén trở về thơ thứ 2Biện pháp điệp cấu trúc câu được sử dụng trong câu thơ“Gió theo lối gió, mây đường mây”. Gió, mây như tượng trưng cho sự chia ly mỗi người một nơi. “Dòng nước buồn thiu” sử dụng nhân hóa để thể hiện được rõ nét hơn tâm trạng của tác giả. Câu thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” sử dụng câu hỏi tu từ. Đó chính là lời hỏi tự lòng của tác giả. Sử dụng chúng nhằm nói lên nỗi buồn của tác giả. Ông buồn vì muốn ngắm được trăng nhưng lại khó nắm bắt và khá xa thơ thứ 3Trong khổ thơ này câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” sử dụng nghệ thuật cực tả. Trăng đã tàn còn lại đây một mình thi sĩ ôm nỗi niềm thương nhớ đến người mình yêu. “Trắng quá” sử dụng lỗi miêu tả cực phóng đại. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời bộc bạch của chính nhà thơ. Kết hợp đại từ phiếm chỉ “ai” cùng với câu hỏi tu từ. Tất cả làm cho lời bộc bạch đó càng khó khăn hơn trong việc xác đây khái quát lại giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ Dạ. Qua đó cho ta hiểu hơn về nét độc đáo trong thơ của Hàn Mặc Tử. Chúc các bạn học tốt môn ngữ văn! Văn Học Lớp 11 -
Đây Thôn Vĩ Dạ ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Ý Nghĩa Nhan Đề. Nội Dung Bài Thơ Đây Thôn Vĩ DạVề Nhà Thơ Hàn Mặc TửVề Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ DạHoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ DạÝ Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ DạGiá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ DạGiá trị nội dungGiá trị nghệ thuậtBố Cục Đây Thôn Vĩ DạDàn Ý Đây Thôn Vĩ DạSơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Ấn Tượng – Mẫu 1Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc – Mẫu 2Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Đặc Sắc – Mẫu 3Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Nổi Bật – Mẫu 4Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Tiêu Biểu – Mẫu 5 Nhắc tới nhà thơ Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đậy thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mạc Tử. Cùng đọc Nội Dung Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đầy đủ bên dưới. Đây thôn Vĩ DạTác giả Hàn Mặc Tử Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới ai mướt quá, xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xa,Áo em trắng quá nhìn không ra…Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,Ai biết tình ai có đậm đà? Cập nhật thêm tác phẩm 💌 Tràng Giang [Huy Cận] 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ Về Nhà Thơ Hàn Mặc Tử Sau đây là những thông tin chính Về Nhà Thơ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử 1912 – 1940, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí. Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới nay là tỉnh Quảng Bình trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha của ông mất sớm, Hàn Mặc Tử sống với mẹ ở Quy Nhơn và học trung học ở trường Pe-lơ-ranh ở Huế hai năm. Sau đó ông về làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong, về ở tại Quy Nhơn chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh… Ban đầu, ông sáng tác theo khuynh hướng thơ Đường cổ điển, sau đó thì chuyển hẳn sang khuynh hướng lãng mạn. Hồn thơ Hàn Mặc Từ nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Các tác phẩm chính Gái quê 1936, thơ, Thơ Điên 1938, sau đổi thành Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ kịch thơ, 1939… Tham khảo phân tích tác phẩm 🌸 Vội Vàng [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý Về Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ Về Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ, bài thơ lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên về sau đổi thành Đau thương. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình. Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Cùng tìm hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ sau đây. Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử dành cho người con gái xứ Huế Trong thời gian làm việc tại sở Đạc Điền tỉnh Quy Nhơn, ông đã đem lòng yêu cô con gái tên Hoàng Cúc, một thiếu nữ với vẻ đẹp kín đáo, chân quê. Tuy nhiên, do bản tính nhút nhát, rụt rè mà Mặc Tử chỉ dám đứng từ xa nhìn cô gái và mối tình đơn phương đó đã dần phai nhạt khi Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ Huế. Khi biết được tình cảm của Mặc Tử dành cho nàng Cúc và biết được bệnh tình nghiêm trọng của Hàn Mặc Tử lúc đó, anh họ nàng đồng thời là bạn của thi sĩ họ Hàn – Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho Hoàng Cúc để mong nàng viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Thay vì viết thư thăm hỏi đơn thuần, Hoàng Cúc đã gửi kèm một bức bưu ảnh có in hình phong cảnh thiên nhiên Vĩ Dạ. Chính từ bức ảnh và mối tình tha thiết với người con gái xứ Huế đã khơi gợi xúc cảm, trở thành nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ này. Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm🔻 Hầu Trời [Tản Đà] 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chia sẻ cho các bạn Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ. Đặt tên tác phẩm là Đây thôn Vĩ Dạ chứ không phải Thôn Vĩ Dạ vì Hàn Mặc Tử muốn người đọc tinh ý nhận ra dụng ý của từ đây. Nó như một lời giới thiệu đến người đọc về đất Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Từ “Đây” – nó mang ý nghĩa như một sự nhấn mạnh đối với một sự vật, sự việc nào đó. Đồng thời cũng cho thấy nhà thơ như đang đặt tay lên lồng ngực mình, gọi những tiếng thân thương Vĩ Dạ, Vĩ Dạ ở Huế, Vĩ Dạ cũng ở “đây”, trong tim Hàn Mặc Tử. Giá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ Ngay sau đây là những Giá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ. Giá trị nội dung Cả bài thơ là một bức tranh thôn Vĩ vừa mang vẻ đẹp rất thực với tất cả nét trong sáng, tinh khôi, thơ mộng với những đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Nhưng dường như những hình ảnh ấy mơ hồ, mờ nhòe như thực, như ảo. Tất cả được tái hiện lại qua kí ức của người nghệ sĩ. Ba khổ thơ với những hình ảnh dường như không liên quan nhưng sự thực chúng là những mảnh ghép kí ức của nhà thơ. Đồng thời cũng là nỗi đau đớn, quằn quại của Hàn Mặc Tử khi khao khát được sống, tha thiết với đời còn quá sâu nặng mà thời gian còn lại của đời người lại quá ngắn ngủi. => Bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước nhưng đồng thời cũng là khao khát sống đến cháy bỏng của nhà thơ. Giá trị nghệ thuật Mạch thơ đứt nối không theo tính liên tục của thời gian và duy nhất của không gian nhưng lại diễn tả mạch vận động nhất quán của dòng tâm tư Hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, ngôn ngữ cực tả trong sáng, súc tích khiến cho trường liên tưởng được mở rộng, khung cảnh thiên nhiên trở nên đẫy đà, giàu sức sống để nhấn mạnh hơn khao khát sống của người nghệ sĩ Sử dụng hàng lọat câu hỏi tu từ, giọng điệu da diết khắc khoải khiến cho bài thơ đọng lại trong lòng người đọc là một nỗi băn khoăn, day dứt về cuộc đời. Xem ngay về tác phẩm 🌻Lưu Biệt Khi Xuất Dương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay Bố Cục Đây Thôn Vĩ Dạ Bố Cục Đây Thôn Vĩ Dạ gồm 3 phần chính như sau Phần 1. Khổ thơ thứ nhất Khung cảnh thiên nhiên nơi thôn Vĩ. Phần 2. Khổ thơ thứ hai Khung cảnh sông nước đêm trăng, tâm trạng của nhà thơ. Phần 3. Khổ thơ cuối cùng Khát vọng tình yêu, cuộc sống của nhà thơ. Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ Cùng tham khảo thêm Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ nhé. I. Mở bài – Hàn Mặc Tử là nhà thơ có dấu ấn cái tôi khác biệt trong phong trào Thơ mới. Điển hình là trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, con người ông được bộc lộ một cách rõ nét nhất. II. Thân bài – Hàn Mặc Tử là con người yêu thiên nhiên, cuộc sống “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là câu hỏi, vừa là lời chào mời. Lời thơ nhẹ nhàng gợi nhắc đến bóng dáng xưa cũ, ở đó có người con gái Huế ông thương. Bao nhiêu kỉ niệm ùa về với cảnh sắc thiên nhiên trữ tình. “Nắng mới lên” là nắng mới, không quá gay gắt, ánh nắng nhẹ nhàng khiến mọi người đều cảm thấy dễ chịu. Ấn tượng nhất là hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chữ “điền” ở đây có thể chỉ hình ảnh cánh cửa sổ ngôi nhà hay cũng chính là hình ảnh thấp thoáng của người con gái có gương mặt phúc hậu xứ Huế. → Dù không được trở lại thăm thôn Vĩ Dạ nhưng mọi hình ảnh nơi đây vẫn được nhà thơ Hàn Mặc Tử lưu giữ với niềm mến thương khôn xiết. Thôn Vĩ với ông là một niềm ước vọng lớn nhưng cũng đầy nên thơ và trữ tình. – Hàn Mặc Tử là con người cô đơn Khổ 2 của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tâm trạng đầy đau buồn, nhớ nhung của nhà thơ Hàn Mặc Tử “Gió theo lối gió, mây đường mây … Có chở trăng về kịp tối nay” Sử dụng biện pháp nhân hóa, dòng nước dường như cũng buồn thay cho tâm trạng của tác giả. Nhịp thơ 4/3 ngăn cách; không gian trong bài thơ cũng trở nên sâu lắng hơn. “Gió theo lối gió, mây đường mây”, mọi thứ chia đôi ngả, gần mà xa xôi cách trở như chính câu chuyện của tác giả vậy. “Thuyền ai” gợi cảm giác vừa quen, vừa lạ. → Hàn Mặc Tử như đã nhuộm màu tâm trạng cho khổ thơ, ở đó ông cũng khát khao được yêu, được chiếm lấy tình yêu nhưng không còn đủ thời gian nữa. – Hàn Mặc Tử – con người đầy trăn trở, day dứt Khổ 3 cũng là khổ cuối của bài thơ là tâm tình của tác giả với người con gái Huế “Mơ khách đường xa, khách đường xa … Ai biết tình ai có đậm đà”. Con người, cảnh vật giờ đây đang dần mờ nhạt và biến mất. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, mọi vật như đang được đan xen vào nhau, thật khó để phân biệt rạch ròi. “Ai biết tình ai có đậm đà”, tác giả hoài niệm rồi lại bâng khuâng, hụt hẫng. → Hàn Mặc Tử trở về hiện tại, ông cảm nhận rõ hơn về sự xa xôi, hư ảo của hạnh phúc rồi lại tự mình thở dài, nhớ mong. III. Kết bài – Hàn Mặc Tử là con người đầy ước vọng và đau buồn. Thơ ông khiến người đọc cảm thấy day dứt, ám ảnh một nỗi buồn không thể viết thành tên. Giới thiệu đến bạn đọc 💚 Chí Phèo [Nam Cao] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chia sẻ bạn đọc các Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ. Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Dễ Hiểu Sơ Đồ Tư Duy Bức Tranh Thiên Nhiên Đây Thôn Vĩ Dạ Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chi Tiết Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Đầy Đủ Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc Có thể bạn quan tâm 🌿 Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất Tham khảo ngay 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất bên dưới. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Ấn Tượng – Mẫu 1 Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu. Vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu. Gió theo lối gió mây đường mây….Có chở trăng về kịp tối nay ? Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang. Thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau. Không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCỏ chở trăng về kịp tối nay? Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng chiếu xuống dòng sông. Làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh. Trăng biến thành vô lường, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng Thuyền ai đậu đên sông trăng đóCó chở trăng về kịp tôi nay? Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình. Nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ Mơ khách đường xa, khách đường xa…Ai biết tình ai có đậm đà ? Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà? Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói Ai biết tình ai có đậm đà ? Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng. Đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc – Mẫu 2 Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Đặc biệt là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc. Bài thơ bắt đầu với câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế. Ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Câu hỏi tu từ đã bộc lộ khao khát của nhà thơ mong muốn được trở về thôn Vĩ. Từ đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp “Nhìn nắng hàng cau nắng mới ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Trong tưởng tượng của người đọc, bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Màu sắc nổi bật là màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh. Cùng với đó là từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thanh thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với “khuôn mặt chữ điền” ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng. Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng “Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…” “Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắp “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không gian nhuốm màu thê lương, buồn bã. Trong khung cảnh thiên nhiên đó, câu hỏi cất lên “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay?” Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khao giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình. Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết “Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi tu từ với đại từ phiếm chỉ “ai” như bộc lộ một niềm khao khát được sống, được yêu thương. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao cảm. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Đặc Sắc – Mẫu 3 Nhà thơ Hàn Mặc Tử, một trong những thi sĩ nổi danh với trường thơ “điên” cùng những hồn thơ tha thiết, trong trẻo lại vừa quằn quại, đau đớn đến tột cùng. Mỗi tác phẩm của Hàn Mặc Tử đều để lại những dấu ấn khó quên trong lòng người đọc, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên xứ Huế trong trẻo, căng tràn nhựa sống mà qua đó còn thể hiện nỗi khao khát về tình đời, tình người trong tâm hồn thi sĩ. Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với ngôn ngữ giản dị mà giàu giá trị biểu đạt, Hàn Mặc Tử đã cất tiếng nói của trái tim mình một cách đầy chân thành và tha thiết. Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Câu hỏi tu từ vừa như trách móc lại vừa như mời gọi ấy khiến người đọc nhớ đến mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái xứ Huế. Phải chăng vì nuối tiếc những điều xưa cũ, những lời chưa kịp tỏ bày mà tác giả đang tự vấn chính mình trong nỗi khắc khoải khôn nguôi rằng sao không trở về thăm lại thôn Huế, vùng quê thanh bình mà yên ả mà mình từng gắn bó. Lời giục giã ẩn sau câu thơ bảy chữ cũng là tiếng lòng trách móc bản thân của nhân vật trữ tình. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn “thôn Vĩ’ làm hình ảnh trung tâm, gợi thương gợi nhớ. Bởi nơi đây chứa chan những cảnh sắc thi vị, hài hòa, nơi mà thi nhân từng gắn bó, yêu thương. Một mảnh vườn thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt sau mớ ngôn từ được sắp đặt đầy chủ ý “Nhìn nắng hàng cau , nắng mới lênVườn ai mướt quá, xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Trong tâm hồn ấy, hẳn thôn Vĩ phải giữ một vị trí vô cùng đặc biệt, tác giả mới viết nên những vần thơ đẹp đến xao lòng như thế. Khu vườn thôn Vĩ xanh non, biếc rờn mơn mởn sự sống được gợi mở ra trước mắt người đọc. Đó là “nắng hàng cau” ánh nắng thanh khiết, ấm áp chứa hình ảnh quê nhà “hàng cau” đang “tắm” mình dưới ánh nắng ban mai. “Xanh như ngọc” là cách so sánh độc đáo gợi tả vẻ đẹp xanh non, tươi tắn của cây lá trong khu vườn. Trong khung cảnh tươi đẹp, căng tràn sức sống của thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh người con xứ Huế xuất hiện sau hàng trúc. “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền” gợi ra vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu của người con gái Huế. Sự hài hòa giữa cảnh và người nơi thôn Vĩ làm cho bức tranh thơ trở nên bình yên và ngọt ngào quá đỗi. Thiên nhiên đẹp quá khiến lòng người thổn thức, thi nhân đang ở một nơi xa xôi mà nhớ về chốn cũ bằng cả lý trí, tâm hồn và trái tim mình. Đằng sau bức tranh cảnh thiên nhiên đẹp ấy phải chẳng là những vệt màu tâm trạng chôn giấu bấy lâu trong lòng người. Đó là nỗi nhớ thương, là khát khao được trở về, là mong ngóng được gặp người, gặp cảnh, là thiết tha được tâm giao với người mình thương sau những tháng năm mòn mỏi đợi chờ. Nỗi nhớ hòa trong tình yêu, nỗi nhờ hòa trong hoài niệm, nỗi nhớ hòa trong tưởng tượng, tất cả đã vẽ nên một bức tranh thật buồn, thât đẹp và cũng thật nên thơ. Bước sang khổ thơ thứ hai, nỗi khát khao tình người, tình đời của thi nhân càng rõ rệt, thấm trong từng hơi thở của ngôn từ “Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay” Cảnh vật chìa lìa đôi ngả, không gian nhuốm màu chia ly. Nhịp thơ 4/3 kết hợp cùng các hình ảnh tương phản, đối lập “gió theo lối gió, mây đường mây” gợi lên nỗi buồn của sự chia xa. Mây gió vốn đi cùng nhau “gió thổi, mây bay” giờ đây lại như hai kẻ ngược dòng, ngược lối. Còn gì đau đớn hơn khi một kẻ khát khao gặp gỡ, khát khao được giao cảm với con người, cuộc đời nhưng chỉ thấy sự đơn độc, chia li. Sự chia xa ấy, phải chăng còn là dự cảm về một sự chẳng lành trong tương lại khi tác giả phải chia lìa cõi trần gian trong cảnh bạo bệnh? Không còn là những vần thơ mang màu sự sống như khổ thơ thứ nhất nữa, sang đến những dòng thơ hiện tại, Hàn Mặc Tử nhìn đâu cũng thấy nỗi buồn “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được tác giả tiếp tục sử dụng như một phương tiện bộc bạch tâm trạng, bởi vốn ”Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Dòng sông buồn với những cánh hoa bắp lay nhẹ trong gió, hờ hững và tẹ nhạt. Phép nhân hóa “dòng nước buồn thiu”càng làm cho dòng sông thêm tâm trạng. “Dòng nước buồn thiu” là vì đâu? Vì gió, mây đôi ngả hay vì lòng ta đa mang? Giữa dòng nước buồn thiu, giữa dòng đời buồn tênh ấy, nhân vật trữ tình mong mỏi được ai đó đến để kịp sẻ chia, kịp dốc bầu tâm sự “Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?“ Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, không gian đêm tối tràn ngập ánh trăng. Kẻ cô đơn thường tìm đến trăng bầu bạn, xem trăng là tri kỉ, là bạn tâm giao. Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài nỗi niềm ấy. Thi nhân đang khát trăng, mong cho thuyền chở trăng về “kịp”, bởi với một người cái chết đang cận kề trong gang tấc, thời gian nào có thể chờ đợi. Ngày tháng còn lại quá ít ỏi, đếm vị thời gian mà lòng đau đớn khôn nguôi, chữ “kịp” cất lên nghe sao thật xót xa, đau đáu. Sự khắc khoải, chờ đợi, mong mỏi, hy vọng, khát khao mãnh liệt được giao cảm như dồn hết vào dòng thơ ấy. “Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà ?” Nỗi khát khao càng lớn, tác giả càng muốn tìm về mộng tưởng để thỏa nỗi niềm nhung nhớ. Một giấc mơ có bóng hình người con gái xuất hiện. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với điệp ngữ “khách đường xa” cùng động từ “mơ” càng tô đậm nỗi ngóng trông da diết của nhân vật trữ tình. Hình ảnh “đường xa” gợi khung cảnh về không gian, hình ảnh giấc mơ gợi khoảng cách về thời gian, tứ thơ gợi khoảng cách về lòng người. Liệu rằng tâm hồn này thương say đắm, yêu say đắm, chờ đợi da diết mà lòng ai có thấu, tình ai có tỏ hay không? “Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Hình ảnh “nhân ảnh” mờ trong “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” càng gợi nỗi bâng khuâng, hoài vọng của thi nhân. Nhưng sau tất cả, dường như chỉ nhận lại toàn những thất vọng, hụt hẫng, nuối tiếc mà thôi “Ai biết tình ai có đậm đà ?” m hưởng bài thơ có nhớ thương, có buồn đau, có hy vọng cũng không ít hụt hẫng và đau đớn, nhưng sau những điều ấy là một trái tim tha thiết với cuộc đời, khát khao sống và được sống để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, được giao cảm với tình người, tình đời. Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm xuất sắc trong làng thơ Mới với sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình cùng những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Hàn Mặc Tử không chỉ dùng ngôn ngữ nghệ thuật để bộc bạch tâm trạng mà còn dùng cả tiếng nói của con tim để giãi bày cùng nhân thế. Tác phẩm như một bông hoa dại trong vườn thơ của văn học nước nhà, không sắc thơm mà vẫn tỏa hương ngào ngạt. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Nổi Bật – Mẫu 4 Hàn Mặc Tử đã mang cả tiếng lòng quằn quại, đớn đau của mình vào trong thơ, để kiếm tìm sự đồng điệu của những điệu hồn. Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà ở đó người đọc dường như thấy một cái tôi đang đau đớn trong mặc cảm về sự chia lìa, đồng thời thấy được một hồn thơ với tình yêu đời, lòng khát sống mãnh liệt mà cũng đầy uẩn khúc, bế tắc của Hàn Mặc Tử. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, mà cũng như đã là một câu trả lời, hay một lời trách móc ý nhị, mà có chăng cũng là một lời mời đầy bất lực để tiếp đó dẫn người đọc vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, giàu sức sống “Sao anh không về chơi thôn VĩNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ. Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo. Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại “Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?” Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm. Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định. “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc thay “Mơ khách đường xa khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này. Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, trớ trêu thay định nghĩa ấy lại thật đúng với Hàn Mặc Tử, thơ ông là tiếng kêu xé lòng của một niềm đau, một hồn đau đầy cô độc, cất tiếng vọng hướng đến tìm kiếm sự đồng điệu, nhưng đáp trả mãi chỉ là những ảo ảnh thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã. Đây thôn Vĩ Dạ vừa đẹp mà cũng vừa thật ám ảnh, chở đi biết bao nỗi niềm của Tử gửi vào hậu thế sau này. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Tiêu Biểu – Mẫu 5 Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo. Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ. Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền” Thơ duyên Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây. Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng “Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người. Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng “Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?” “Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như “Trăng nằm sóng soài trên cành liễuĐợi gió đông về để lả lơi” Bẽn lẽn Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấySáng dậy điên cuồng mửa máu ra” Say trăng Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng. Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình “Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ. Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử sẽ được hướng dẫn tìn hiểu trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hôm nay, THPT Ngô Thì Nhậm mời bạn đọc tham khảo tài liệu giới thiệu về Hàn Mặc Tử và nội dung bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được đăng tải dưới đây. Đây thôn Vĩ DạI. Đôi nét về tác giả Hàn Mặc TửII. Giới thiệu về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ1. Hoàn cảnh sáng tác2. Bố cục3. Nội dung4. Nghệ thuật Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Bạn đang xem Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà? I. Đôi nét về tác giả Hàn Mặc Tử – Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khẳng định “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Quả thật Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới. – Hàn Mặc Tử 1912 – 1940, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí. – Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới nay là tỉnh Quảng Bình trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. – Cha của ông mất sớm, Hàn Mặc Tử sống với mẹ ở Quy Nhơn và học trung học ở trường Pe-lơ-ranh ở Huế hai năm. – Sau đó ông về làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo. – Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong, về ở tại Quy Nhơn chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa. – Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. – Ông làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh… Ban đầu, ông sáng tác theo khuynh hướng thơ Đường cổ điển, sau đó thì chuyển hẳn sang khuynh hướng lãng mạn. – Hồn thơ Hàn Mặc Từ nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. – Một số nhận định về Hàn Mặc Tử “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Chế Lan Viên “…Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng…” và “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” Hoài Thanh – Các tác phẩm chính Gái quê 1936, thơ, Thơ Điên 1938, sau đổi thành Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ kịch thơ, 1939… II. Giới thiệu về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ 1. Hoàn cảnh sáng tác – “Đây thôn Vĩ Dạ” lúc đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938. – Bài thơ được in trong tập Thơ Điên về sau tập thơ này đổi tên thành Đau thương. – “Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ mối tình đầu của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ – một thôn nhỏ bên dòng sông Hương Huế. – GS. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho biết “Hồi làm nhân viên ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm yêu trộm nhớ đơn phương một cô gái người Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì cô gái đã theo gia đình về Vĩ Dạ Huế. Một buổi kia, cô Cúc do sự gợi ý của một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, gửi vào cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp một phong cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đã mắc hiểm nghèo bệnh phong. Lời thăm hỏi không ký tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử…” 2. Bố cục Gồm 3 phần Phần 1. Khổ thơ thứ nhất Khung cảnh thiên nhiên nơi thôn Vĩ. Phần 2. Khổ thơ thứ hai Khung cảnh sông nước đêm trăng, tâm trạng của nhà thơ. Phần 3. Khổ thơ cuối cùng Khát vọng tình yêu, cuộc sống của nhà thơ. 3. Nội dung Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. 4. Nghệ thuật Hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng… Đăng bởi Trường THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo Dục Xem thêm Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử sẽ được hướng dẫn tìn hiểu trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hôm nay, THPT Ngô Thì Nhậm mời bạn đọc tham khảo tài liệu giới thiệu về Hàn Mặc Tử và nội dung bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được đăng tải dưới đây. Đây thôn Vĩ Dạ Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà? I. Đôi nét về tác giả Hàn Mặc Tử – Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khẳng định “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Quả thật Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới. – Hàn Mặc Tử 1912 – 1940, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí. – Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới nay là tỉnh Quảng Bình trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. – Cha của ông mất sớm, Hàn Mặc Tử sống với mẹ ở Quy Nhơn và học trung học ở trường Pe-lơ-ranh ở Huế hai năm. – Sau đó ông về làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo. – Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong, về ở tại Quy Nhơn chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa. – Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. – Ông làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh… Ban đầu, ông sáng tác theo khuynh hướng thơ Đường cổ điển, sau đó thì chuyển hẳn sang khuynh hướng lãng mạn. – Hồn thơ Hàn Mặc Từ nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. – Một số nhận định về Hàn Mặc Tử “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Chế Lan Viên “…Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng…” và “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” Hoài Thanh – Các tác phẩm chính Gái quê 1936, thơ, Thơ Điên 1938, sau đổi thành Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ kịch thơ, 1939… II. Giới thiệu về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ 1. Hoàn cảnh sáng tác – “Đây thôn Vĩ Dạ” lúc đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938. – Bài thơ được in trong tập Thơ Điên về sau tập thơ này đổi tên thành Đau thương. – “Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ mối tình đầu của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ – một thôn nhỏ bên dòng sông Hương Huế. – GS. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho biết “Hồi làm nhân viên ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm yêu trộm nhớ đơn phương một cô gái người Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì cô gái đã theo gia đình về Vĩ Dạ Huế. Một buổi kia, cô Cúc do sự gợi ý của một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, gửi vào cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp một phong cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đã mắc hiểm nghèo bệnh phong. Lời thăm hỏi không ký tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử…” 2. Bố cục Gồm 3 phần Phần 1. Khổ thơ thứ nhất Khung cảnh thiên nhiên nơi thôn Vĩ. Phần 2. Khổ thơ thứ hai Khung cảnh sông nước đêm trăng, tâm trạng của nhà thơ. Phần 3. Khổ thơ cuối cùng Khát vọng tình yêu, cuộc sống của nhà thơ. 3. Nội dung Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. 4. Nghệ thuật Hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng…
Đặc sắc nội dung, nghệ thuật bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Nếu ai yêu thích thơ của Hàn Mặc Tử chắc hẳn đã từng nghe qua tập “Thơ điên” nổi tiếng đã làm nên biệt danh “nhà thơ điên” của ông. Tập thơ là một vùng trời cảm xúc được thể hiện qua từng vần thơ tình tứ biến chuyển đến nỗi đau cùng cực của thể xác và tâm hồn. Trong đó, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm thuộc tập thơ này. Hãy cùng CungHocVui tìm hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” qua bài viết được chia sẻ dưới đây! Tìm hiểu về đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ I. Giới thiệu tác giả, tác phẩm Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng dẫn đầu cho phong trào thơ mới. Dù mang trong mình tài hoa thiên phú, nhưng số phận lại trêu ngươi ông bởi căn bệnh quái ác. Vì bệnh tật nên ông đã mất sớm, dù vậy những tác phẩm thơ ca mà ông để lại cho đời đã tạo nên những nét riêng biệt đầy độc đáo cho nền văn học Việt Nam. Ngoài ra, Hàn Mặc Tử còn được biết đến là “nhà thơ điên” với những vần thơ ma mị, điên loạn, khó hiểu và kì lạ. Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm được ông sáng tác vào năm 1938. Sau này, tác phẩm được đưa vào tập Thơ Điên. Người ta cho rằng, bài thơ được tạo nên với nguồn cảm hứng là mối tình đẹp đẽ nhưng lại không có cái kết đẹp của Hàn Mặc Tử với cô gái ở làng Vĩ Dạ - một ngôi làng gần con sông Hương của xứ Huế mộng mơ. Xem thêm Top 3 mở bài Đây thôn Vĩ Dạ Nghị luận văn học Đây thôn Vĩ Dạ II. Bố cục Đây thôn Vĩ Dạ được chia làm ba phần, tương ứng với mỗi phần là một khổ thơ Phần I - Khổ 1 Hình ảnh vườn thôn Vĩ Dạ trong tâm trí tác giả. Phần II - Khổ 2 Hình ảnh đêm trăng, sông nước xứ Huế cùng những tâm trạng của thi sĩ. Phần III - Khổ 3 Nỗi hoài nghi và trí tưởng tượng hiện lên trong tâm trí nhà thơ. Đặc sắc nội dung, nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Nghệ thuật bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Nội dung Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên một cách gần gũi, giản dị cùng chút mơ hồ, kì bí đặc trưng của xứ Huế qua góc nhìn, trí nhớ của tác giả. Bài thơ thể hiện tình cảm tác giả đối với cảnh thiên nhiên tinh khôi cùng người cô gái nơi thôn Vĩ Dạ. Từ đó, cảm xúc của tác giả hiện lên một cách chân thực, mãnh liệt với tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên, yêu con người xứ Huế mộng mơ và yêu cuộc sống tươi đẹp. Nghệ thuật Ngôn từ sử dụng trong sáng, gần gũi, gợi hình, gợi cảm. Kết hợp tả cảnh cùng những hình ảnh tượng trưng để tạo nên những hình ảnh riêng biệt, độc đáo. Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ với giọng điệu tha thiết, như bày tỏ cũng như hờn trách. Mỗi khổ thơ là một tâm tư, tình cảm riêng của tác giả, có sự thăng cấp cảm xúc. Dù không được trình bày với thứ tự chuẩn mực, nhưng nó phù hợp với tâm tư và góp phần bộc lộ của xúc của tác giả. Xem thêm Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Khung cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ Đặc sắc nghệ thuật bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết Khổ 1 Ngay từ câu đầu tiên, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật câu hỏi tu từ, giống như lời mời gọi, cũng có thể là lời tự trách chính mình. Tác giả đã dùng những ngôn từ tinh tế để bộc lộ vẻ đẹp của cảnh vật” “nắng hàng cau” như vẽ nên bức tranh với vẻ đẹp lấp lánh của hàng cau dưới ánh nắng sương mai. Từ đó, tạo nên một khung cảnh nên thơ, đẹp đẽ. Sử dụng phép so sánh “xanh như ngọc” để tả khu vườn với màu sắc xanh tươi trông như một viên ngọc khổng lồ, căng tràn nhựa sống. Tác giả sử dụng hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đem lại nhiều lớp nghĩa. Đó cũng có thể là hình ảnh của những cô nàng xứ Huế mộng mơ dịu dàng, e ấp, hay cũng có thể là hình ảnh thập thò, ngượng ngùng của chàng thi sĩ khi trở về thăm thôn và bắt trọn khung cảnh tươi đẹp. Cảm nhận đặc sắc nghệ thuật trong khổ 1 của bài thơ Khổ 2 Điệp cấu trúc “Gió theo lối gió, mây đường mây” nhằm gợi ý cho sự chia ly, cách biệt. Với nghệ thuật nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã thể hiện chính tâm trạng của nhà thơ. Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” có thể là đang hỏi ai đó, cũng có thể là đang tự hỏi chính lòng mình. Từ đó, cảm xúc, nỗi buồn của tác giả được bộc lộ một cách sâu sắc. Có lẽ ông muốn ngắm trăng, nhưng ngắm trăm lại càng phát hiện hiện thực tàn nhẫn, xa vời. Xem thêm Vội vàng- Xuân Diệu Chiều tối- Hồ Chí Minh Khổ 3 Nghệ thuật cực tả “áo em trắng quá nhìn không ra” như thể hiện giấc mơ của thi sĩ đã tàn, chỉ có thể gửi gắm vào người mình thầm thương. Thế nhưng hình bóng ấy giờ chỉ còn đọng lại trong trí tưởng tượng xa vời, xa đến mức chỉ còn lại cảm nhận về màu sắc. “Trắng quá” là sự miêu tả cực đại, là sự tận cùng của màu sắc và cũng chính là tận cùng nỗi nhớ, nỗi khát vọng của nhà thơ. Nhà thơ tiếp tục dùng câu hỏi tu từ “ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây lại là một câu hỏi đa nghĩa, khó xác định. Từ “ai” - một đại từ phiếm chỉ - được sử dụng hai lần lại càng làm cho câu hỏi thêm khó xác định, mông lung và khó hiểu. Đó là những đặc sắc trong nội dung, nghệ thuật bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mà bạn có thể tham khảo khi có nhu cầu. Chúc bạn luôn học tốt môn Ngữ Văn 11!
nghệ thuật bài thơ đây thôn vĩ dạ